Nguyên nhân và biểu hiện của bệnh xuất huyết não tự phát

Xuất huyết não (XHN) có nguồn gốc không do chấn thương được định nghĩa là sự thoát mạch tự phát cấp tính của máu vào nhu mô não, cũng có thể lan rộng vào não thất và trường hợp hiếm là vào khoang dưới nhện. XHN tự phát có tỉ lệ tử vong cao nhất trong tất cả tai biến mạch máu não, chiếm khoảng 10-30% tất cả đột quỵ nhập viện[1] dẫn đến tàn tật nghiêm trọng, tỉ lệ biến chứng và tử vong từ 30-50% tại ngày 30. Thường gặp hơn ở nam giới đặc biệt người lớn hơn 55 tuổi và trong các quần thể nhất định.

Nguyên nhân sinh bệnh của XHN tự phát
Xuất huyết não nguyên phát
Bệnh THA THA mãn tính chiếm >50% XHN tự phát. Xuất huyết trong thể vân, đồi thị, tiểu não và thân não do vỡ động mạch (đm) nhỏ. THA cấp tính có thể xảy ra trong sản giật (XHN là nguyên nhân trực tiếp thường gặp nhất gây tử vong).
Bệnh mạch máu dạng bột Bệnh mạch máu thoái hóa dạng bột là phổ biến nhất. Tỉ lệ báo cáo là 10% ở tuổi 70 và >60% ở tuổi 90. Do ứ đọng amyloid (A-beta) ở thành đm nhỏ và trung bình. Gây XHN ở thùy não và thường tái phát.
Xuất huyết não thứ phát
Dị dạng mạch máu Vỡ các mạch máu nhỏ bất thường
Dị dạng động tĩnh mạch

  • Dò động tĩnh mạch màng cứng
  • U mạch máu dạng hang

U tĩnh mạch ™

Có thể xảy ra ở bất kì vùng nào trong não. Nguy cơ cao của XHN tái phát có thể giảm bằng phẫu thuật cắt bỏ, can thiệp nội mạch và xạ phẫu tiếp xúc
Túi phình động mạch Vỡ từ đm có kích thước trung bình. XH thường xảy ra trong khe sylvian và liên bán cầu
Huyết khối xoang tĩnh mạch Gây nhồi máu tĩnh mạch xuất huyết. Có thể dẫn tới XHN do tăng áp tm
U não Gây hoại tử và chảy máu trong u. Hay gặp là di căn hoặc u tuyến yên
Rối loạn đông máu Khoảng 10-26% gồm rối loạn tiểu cầu bẩm sinh hoặc mắc phải, thiếu yếu tố đông máu bẩm sinh, điều trị thuốc kháng đông và tiêu sợi huyết.
Nhồi máu chuyển dạng xuất huyết Do thiếu máu cục bộ gây tổn thương hàng ráo máu não
Lạm dụng thuốc hoặc rượu Gồm cocaine và amphetamine. Có thể gây vỡ mạch do THA hệ thống rất mạnh. Có thể kèm bất thường mạch máu
Hậu phẫu Hiếm gặp sau pt bóc lớp áo trong đm cảnh và pt tim có thể gây biến chứng XHN. Sau pt mở sọ hoặc cắt bỏ AVM có thể gây XHN do phá vỡ áp lực tưới máu bình thường. XH tiểu não đã được báo cáo sau mở sọ thóp bên trước và cắt bỏ thùy thái dương.
Nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương Nhiễm nấm, vi khuẩn và virus có thể gây biến chứng XHN
Hỗn hợp XHN báo cáo sau migraine cấp, hoạt động thể lực quá sức và nhiễm lạnh có thể do tăng lưu lượng máu não đột ngột

Đặc điểm lâm sàng

Suy giảm ý thức thường gặp ở bn có ổ xuất huyết (XH) lớn và là hậu quả tăng ALNS và chèn ép trực tiếp hoặc biến dạng đồi thị và hệ thống lưới hoạt hóa thân não. Trong trường hợp XHN trên lều ở nhân bèo, nhân đuôi và đồi thị có biểu hiện suy giảm chức năng cảm giác và vận động đối bên ở các mức độ khác nhau. Rối loạn chức năng vỏ não cao cấp gồm chứng mất ngôn ngữ, sững sờ, khó liếc liên hợp và bán manh có thể xảy ra do hậu quả phá vỡ các kết nối trong chất trắng dưới vỏ và ức chế chức năng vỏ não Trong trường hợp XHN dưới lều các dấu hiệu rối loạn chức năng thân não gồm: bất thường về liếc ngang, bất thường thần kinh sọ và suy giảm chức năng vận động đối bên. Thất điều, rung giật nhãn cầu và loạn tầm nổi bật khi XHN ở tiểu não. Các triệu chứng không đặc hiệu thường gồm đau đầu, nôn và hội chứng màng não.
Một phần tư bn XHN ban đầu còn tỉnh, suy giảm ý thức xảy ra trong 24 giờ đầu tiên sau khi khởi phát. Ổ XH lớn và xuất huyết não thất (XHNT) làm tăng nguy cơ suy giảm thần kinh và tử vong. Nguyên nhân phổ biến nhất làm xấu kết quả thần kinh trong 3 giờ đầu tiên sau XH là sự mở rộng ổ XH. Phù não nặng hơn cũng dẫn đến suy giảm thần kinh xảy ra trong 24-48 giờ sau XH. Suy giảm thần kinh muộn là do tiến triển của phù não ở tuần thứ 2 và 3
Chẩn đoán
Hình ảnh ban đầu rất quan trọng để xác định nguyên nhân XHN. XH ở các nhân sâu trong não gồm nhân bèo và đồi thị, cầu não và tiểu não nhiều khả năng là do THA trong khi XH thùy não gần bề mặt có thể là nguyên nhân khác như dị dạng mạch máu hay bệnh mạch máu thoái hóa dạng bột. Bn nghi ngờ đột quỵ cần nhanh chóng đến khoa cấp cứu để chụp phim CT hoặc MRI sau ổn định tình trạng ban đầu để phân biệt đột quỵ thiếu máu não hay XHN. MRI có thể phát hiện XHN chính xác hơn đặc biệt các ổ XHN li ti nhưng tốn nhiều thời gian hơn và đòi hỏi sự hợp tác của bn, do đó hầu hết các bệnh viện sử dụng CT scan là chẩn đoán hình ảnh ban đầu. CT scan đánh giá kích thước và vị trí của ổ XH, lan rộng vào não thất, mức độ phù nề xung quanh và sự gián đoạn giải phẫu. Thể tích ổ XH có thể tính toán từ hình ảnh CT scan bằng công thức (a×b×c)/2[1].


CT động mạch (CTA) thường không thực hiện ở hầu hết các trung tâm nhưng nó hữu ích trong dự đoán sự mở rộng và dự hậu của ổ XH. Dấu hiệu điểm (spot sign) trên CTA đặc trưng bởi một hoặc nhiều ổ tăng độ tương phản trong ổ XH ban đầu xảy ra ở khoảng 1/3 bn chụp CT trong vòng 3 giờ với độ nhạy tốt (91%) và giá trị dự đoán âm tính tốt (96%). Dấu hiệu điểm trên CTA đi kèm tiên lượng xấu, tỉ lệ lâm sàng xấu đi sớm và tử vong cao, thường xảy ra trong vòng vài ngày sau khởi phát

Chụp mạch máu não xóa nền nên dành cho bn XHN thứ phát để tìm nguyên nhân nghi ngờ như túi phình đm, dị dạng động tm, huyết khối tm vỏ não hay huyết khối xoang màng cứng hoặc viêm mạch máu. Những hình ảnh trên CT scan hoặc MRI cần chụp mạch máu não bao gồm xuất huyết dưới nhện, XHNT, vôi hóa hoặc XH thùy não ở bn trẻ không THA.
Những xét nghiệm khác (máu, nước tiểu) nhằm xác định các nguyên nhân XHN khác như rối loạn đông máu, tìm độc chất nước tiểu loại trừ do ma túy. Ngoài ra, cần lưu ý một số thảo dược có thể có tính cường giao cảm (như ephedrine) hoặc can thiệp vào quá trình đông máu bình thường làm tăng nguy cơ XHN.

Nguồn: Bác sĩ Nguyễn Vũ

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *